Hôm nay (24/8), tại TP.Cần Thơ, Bộ NNPTNT phối hợp với Viện Nghiên cứu Lúa gạo quốc tế (IRRI) và Hiệp hội Nông nghiệp Đức (DLG) tổ chức hội thảo “Cơ giới hóa đồng bộ hướng tới nền nông nghiệp bền vững”. Đây là hoạt động nằm trong khuôn khổ chương trình sự kiện Agritechnica Asia Live 2022.
Tại hội thảo, ông Lê Đức Thịnh – Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn (Bộ NNPTNT) cho biết, nhiều năm qua, lĩnh vực cơ giới hóa nông nghiệp đã có những bước phát triển đáng kể, góp phần quan trọng vào sự tăng trưởng của ngành nông nghiệp.
Ông Thịnh khẳng định, số lượng, chủng loại máy và thiết bị phục vụ sản xuất nông nghiệp tăng nhanh. Trong giai đoạn 2011 – 2021, số lượng máy kéo các loại tăng 60%, máy cấy tăng 10 lần; máy bơm nước tăng 60%; máy gặt đập liên hợp tăng 80%; máy sấy nông sản tăng 30%…
Thứ trưởng Bộ NNPTNT Trần Thanh Nam phát biểu tại hội thảo “Cơ giới hóa đồng bộ hướng tới nền nông nghiệp bền vững”. Ảnh: Huỳnh Xây.
Trong lĩnh vực chăn nuôi, thủy sản, máy chế biến thức ăn gia súc tăng 91%; máy chế biến thức ăn thủy sản tăng 2,2 lần và máy phun thuốc bảo vệ thực vật tăng 3,5 lần.
Theo ông Thịnh, mức độ cơ giới hoá tại một số khâu trong một số lĩnh vực ngành nông nghiệp có tỷ lệ khá cao như: trồng trọt đạt từ 70% đến 100% (làm đất, tưới, bảo vệ thực vật), chăn nuôi đạt từ 55% đến 90% (thức ăn, nước)…
Cụ thể, đối với cơ giới hóa trong sản xuất lúa giai đoạn 2008 – 2021, khâu làm đất tăng từ 75% lên 97%; khâu gieo sạ, cấy tăng từ 5% lên 65%. Khâu chăm sóc, bảo vệ thực vật tăng từ 55% lên 80%, khâu thu hoạch tăng từ 15% lên 78%; khâu thu gom rơm, rạ đạt 90%.
Còn đối với cơ giới hóa các loại cây trồng khác có mức độ tăng như sau: Về cây mía, khâu làm đất đạt 70 – 90%, khâu trồng mía 40%, chăm sóc đạt 70%, thu hoạch khoảng 20- 30%. Về cây bắp (ngô), khâu làm đất 70 – 90%, khâu thu hoạch khoảng 20 – 30%. Về cây chè, khâu chăm sóc, xới cỏ, phun thuốc trừ sâu đạt gần 70%; khâu đốn, hái chè sử dụng máy đạt 40%…
Quang cảnh hội thảo “Cơ giới hóa đồng bộ hướng tới nền nông nghiệp bền vững”. Ảnh: Huỳnh Xây
Ông Trần Thanh Nam – Thứ trưởng Bộ NNPTNT cũng thông tin tại hội thảo rằng, hiện nay, mức độ cơ giới hóa ở một số khâu trong một số lĩnh vực ngành có tỷ lệ khá cao như: trồng trọt đạt từ 70% đến 100%, chăn nuôi đạt từ 55% đến 90%.
“Cả nước có khoảng 7.803 doanh nghiệp cơ khí, 271 tổ chức nghiên cứu khoa học và 538.700 lao động thuần cơ khí. Trong đó có gần 20.000 cán bộ kỹ thuật được đào tạo chính quy; có 4.028 HTX nông nghiệp tham gia liên kết với 1.867 doanh nghiệp trong sản xuất, thu hoạch chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp” – ông Nam nói.
Còn theo đánh giá của Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, tính chung cả nước số lượng máy, thiết bị nông nghiệp có mức tăng nhanh. Năm 2020 so với năm 2011 số lượng máy kéo tăng 45,5%, trong đó máy kéo cỡ lớn tăng 92,4%, máy kéo cỡ trung tăng 31,3% và máy kéo cỡ nhỏ tăng 53,5%, máy gặt đập liên hợp tăng 77,1%, máy sấy nông sản tăng 25,8%.
Một số chủng loại máy có tốc độ tăng trưởng rất nhanh như máy chế biến thức ăn gia súc tăng 90,6%; máy chế biến thức ăn thủy sản tăng 2,2 lần và máy phun thuốc trừ sâu tăng 3,1 lần.
Hiện nay, Việt Nam đã sản xuất 30% máy móc phục vụ nông nghiệp (đặc biệt máy liên hợp gặt lúa cơ khí trong nước chiếm 30% thị phần, máy xay xát lúa gạo chiếm 90% thị phần).
Mặc dù thời gian vừa qua, lĩnh vực cơ giới hoá trong sản xuất nông nghiệp đã đạt được nhiều kết quả tuy nhiên, theo ông Lê Đức Thịnh, lĩnh vực này đang gặp những khó khăn, thách thức.
Mức độ cơ giới hoá mới tập trung ở một số khâu như làm đất, nước, thức ăn, chỉ áp dụng với một số sản phẩm chủ lực như lúa, mía, cà phê, gia súc, gia cầm, tôm. Ảnh: Huỳnh Xây
Cụ thể, mức độ cơ giới hoá mới tập trung ở một số khâu như làm đất, nước, thức ăn, chỉ áp dụng với một số sản phẩm chủ lực (lúa, mía, cà phê, gia súc, gia cầm, tôm) và chưa đồng bộ. Các máy móc, thiết bị trong nước phục vụ sản xuất nông nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu sử dụng (về chủng loại, số lượng, chất lượng máy). Đa số vẫn được nhập khẩu từ các thị trường: Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Ấn Độ…
Theo ông Thịnh, về kết cấu hạ tầng kỹ thuật vẫn chưa phù hợp để áp dụng cơ giới hoá đồng bộ vào sản xuất nông nghiệp, như giao thông nội đồng, quy mô đồng ruộng còn nhỏ, phân tán; hệ thống tưới, tiêu chưa đồng bộ…
Ngoài ra, theo ông Thịnh, công nghệ và thiết bị chế biến, bảo quản nông sản cũ và lạc hậu, gây tốn nhiều nguyên liệu trong sản xuất, năng suất thấp dẫn đến giá thành sản phẩm cao, khó cạnh tranh.
Tổn thất sau thu hoạch một số ngành hàng còn cao, như: rau quả, sắn khoảng 20 – 30%; cà phê, tiêu, điều, chè từ 10 – 15%; thủy sản đánh bắt từ 15 – 20%; lúa gạo từ 7 – 10%.
Nhiều năm qua, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia đã triển khai các dự án khuyến nông về lĩnh vực cơ giới hóa trong nông nghiệp. Theo đó, các dự án đã được triển khai đảm bảo tiến độ và đạt hiệu quả kinh tế cao.
Tuy nhiên, do các nguyên nhân mà Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn chỉ ra ở trên, dẫn đến việc số lượng các dự án được nhân rộng vẫn còn rất hạn chế.
Để khắc phục tình trạng trên, Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn đề xuất với Bộ NNPTNT cũng như các đơn vị có liên quan, tiếp tục phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật sao cho đồng bộ (đất đai, giao thông nội đồng, thủy lợi nội đồng,…). Tổ chức sản xuất nông nghiệp phù hợp với máy móc, thiết bị cơ giới hoá.
Đồng thời, phát triển công nghiệp chế tạo máy móc, thiết bị, công nghệ do trong nước sản xuất và công nghiệp hỗ trợ cho cơ giới hóa nông nghiệp. Thêm vào đó là phát triển nguồn nhân lực phục vụ cơ giới hoá nông nghiệp.
“Ngoài ra, theo tôi, cần tập trung phát triển doanh nghiệp chế biến nông sản quy mô lớn hiện đại, mang tính chất dẫn dắt, định hướng sản xuất. Đầu tư mới và nâng cấp các cơ sở sơ chế, chế biến, bảo quản quy mô vừa và nhỏ, hợp tác xã với thiết bị, công nghệ, quản lý,… phù hợp với khả năng sản xuất và đặc điểm nguyên liệu đối với nhóm sản phẩm chủ lực và đặc sản của địa phương” – ông Thịnh nói.
Thứ trưởng Bộ NNPTNT Trần Thanh Nam cũng chỉ rõ thêm rằng, cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp vẫn còn tồn tại một số vấn đề.
Điển hình như tỷ lệ cơ giới hóa ở một số khâu sản xuất và lĩnh vực ngành hàng (lâm nghiệp, khai thác thủy sản) còn thấp, chưa đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
Quy mô sản xuất theo chuỗi giá trị còn phân tán; công tác đào tạo nguồn nhân lực phục vụ quá trình cơ giới hóa đồng bộ từ sản xuất, chế biến, bảo quản, tiêu thụ chưa được quan tâm đúng mức.
“Do đó, Bộ NNPTNT đang trình Chính phủ Nghị định về cơ giới hóa đồng bộ trong nông nghiệp làm cơ sở pháp lý để triển khai phát triển cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp thời gian tới. Phấn đấu đến năm 2030, đưa Việt Nam trở thành trung tâm chế biến nông sản đứng trong top 10 nước hàng đầu thế giới theo Quyết định số 858/QĐ-TTg ngày 20/7/2022 của Thủ tướng Chính phủ” – Thứ trưởng Bộ NNPTNT Trần Thanh Nam nói.
Nguồn: https://danviet.vn/dua-viet-nam-vao-top-10-trung-tam-che-bien-nong-san-the-gioi-2022082411283801.htm
SẢN PHẨM MỚI
TIN TỨC